Site icon Việt Seattle

Hồi Ký Dang Dở

Sau ngày quốc hận 30/4/1975, có một số anh chị em Quân Dân Cán Chánh và gia đình tuy may mắn được di tản ra nước ngoài, nhưng không có dịp “may” ở lại để chứng kiến tận mắt được những hành động ngu xuẩn, tàn ác đến man rợ
(1) của những người cộng sản Việt Nam từ miền Bắc và Nam, tự xưng là để “giải phóng cho đồng bào ruột thịt đói rách ở Miền Nam”
(2) của những người cùng uống nước sông Cửu Long nhưng tự hào được cộng sản Bắc Việt cho “tạm mang dép râu, đội nón cối” (mà không biết !), và
(3) của những con “cọp 30” là những người Miền Nam hống hách được cộng sản cho mang băng đỏ trên tay áo, thuộc hệ thống nằm vùng, và nhất thời làm tay sai cho cộng sản!!!

Có thể nói đây là một trang sử bi thảm nhất, của người dân Miền Nam Việt Nam nói riêng, và dân tộc Việt Nam nói chung. Những đồng bào nào được may mắn rời khỏi Việt Nam trước ngày 30 tháng 4/1975, và những em cháu thuộc những gia đình nầy (tính đến nay cũng từ 21 tuổi trở lên, kể cả những con em của tất cả người Việt Nam được chào đời trên các nước phương Tây tự do) không bao giờ hình dung được cái ngày lịch sử đen tối nầy. Bởi vì cộng sản Việt Nam đã cố tình sửa lịch sử ngay từ đầu chiến dịch tiến chiếm Miền Nam, để giành lấy chánh nghĩa “giải phóng dân tộc” cho đảng.
Cho đến giờ nầy, dù chúng tôi có nói lên những sự việc thật sự đã xảy ra, từ trước và sau ngày 30/4/75, thì bà con nào đã rời khỏi đất nước trước ngày lịch sử đó (nhất là thế hệ sau 75) cũng không ai muốn tin và chịu tin đó là sự thật. Một phần vì có người còn cho chúng tôi thuộc thành phần chống cộng, thù ghét cộng sản, nên chỉ nhằm tuyên truyền chống cộng mà thôi. Một phần vì bà con không ai ngờ là “cùng là người Việt Nam” với nhau ai lại có tâm địa vô nhân đạo, phi đạo đức và phi dân tộc đến như thế được.
Do đó, những gì chúng tôi kể lại đây, không hẳn là những trang “hồi ký” của riêng cá nhân mình. Mà thật sự là những gì đã xảy ra tại Saigon và những vùng phụ cận, trong những ngày trước và sau 30/4/1975, kể lại trung thực những sự việc mà chính bản thân chúng tôi vừa là một nạn nhân, vừa là nhân chứng.
Những sự việc mà chính mắt chúng tôi đã thấy, chính tai chúng tôi đã nghe… để tạm gọi là “luận cổ” (nói về chuyện xưa). Để những anh em bạn già chúng ta sống tha hương có đầy đủ yếu tố mà trao đổi nhận định. Và để các thế hệ con cháu chúng mình có thêm sự hiểu biết chính xác hơn về bản chất, về con người, về đường lối chủ trương và chánh sách của người cộng sản Việt Nam, mà “suy kim” (suy biết được cái hiện tại). Tức là để thấy được việc làm của người cộng sản trong hiện tại và trong tương lai.
Người dân Miền Nam chúng ta gọi ngày 30/4 là “ngày Quốc Hận”, vì Nước Việt Nam Cộng Hòa của chúng ta bị xóa tên khỏi bản đồ của Thế Giới nói chung và của Thế Giới Tự Do nói riêng, kể từ ngày 30/4/1975. Bởi vì cộng sản Bắc Việt đã xé bỏ Hiệp Định Paris 1973 mà chúng đã vừa long trọng ký kết, vừa xua quân công khai tiến chiếm Miền Nam Việt Nam.
Có rất nhiều nguyên nhân dẫn đến ngày mất nước, khách quan có, chủ quan có, xa gần đều có v.v.. Chúng tôi không muốn bàn thêm ở đây, vì trong gần 30 năm qua đã có rất nhiều sách báo, hồi ký, Việt có, Mỹ có, Pháp có. Tất cả đều có phân tách rất rõ ràng rồi. Chúng tôi chỉ muốn ghi lại một vài mẩu chuyện thật, vui buồn lẫn lộn của bản thân, có liên quan đến ngày Quốc Hận nầy, để gọi là đóng góp thêm một ít tài liệu vào trang lịch sử đau thương của Đất Nước.
Ngày 1 tháng 2 năm 1973
Tôi và một nhóm anh em sĩ quan cấp tướng tá thuộc Khóa 5 Cao Đẳng Quốc Phòng được thuyên chuyển về Ban Liên Hợp Quân Sự Trung Ương, được thành lập theo điều khoản của Hiệp Định Ngừng Bắn Paris, được ký kết giữa 4 Bên ngày 27 tháng Giêng 1973 tại Paris.
Từ hơn một tháng qua, anh em học viên Cao Đẳng Quốc Phòng chúng tôi được lệnh chia nhau từng toán sửa lại từng điều khoản một, trong bản thảo của cái gọi là “Hiệp Định Ngừng Bắn” sắp được 4 Bên ký kết ở Paris (Pháp). Bởi vì qua nghiên cứu, Chánh Phủ không thấy có một câu nào, một đoạn văn nào, trong bất cứ điều khoản nào, mà không có lợi hoàn toàn cho phía Bắc Việt.
Ngược lại, chỉ có hại hoàn toàn cho Miền Nam Việt Nam mà thôi. Cũng qua nghiên cứu anh em học viên chúng tôi đều thấy là: toàn bộ bản văn tiếng Việt của Hiệp Định nầy rõ ràng là tác phẩm của cộng sản Bắc Việt, được Lê Đức Thọ trao cho Kissinger dịch ra tiếng Anh. Một bản dịch “thật sát nghĩa” từ ý lẫn lời văn của tác giả Miền Bắc !
Đúng vào ngày 27 tháng Giêng1973, sau khi ký kết Hiệp Định, cả Chánh Phủ và chúng tôi đều hết sức thất vọng, vì không thấy được một dấu vết sửa chữa nhỏ nào cuối cùng được thực hiện trước khi các Bên ký kết.
Tôi muốn ghi lại chi tiết nầy để chúng ta cùng thấy: nước Việt Nam Cộng Hòa của chúng ta đã bị Đồng Minh của mình phản bội, bán đứng cho cộng sản Bắc Việt, ngay từ khi họ dàn xếp được Hội Nghị Paris (có cả Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam một trong 4 Bên ở Bàn Hội Nghị) một ít lâu sau Tết Mậu Thân 1968, để rút chân ra khỏi cuộc chiến với một danh từ thật kêu là “Việt Nam Hóa Chiến Tranh”.
Ngày 28 tháng 4/1975
8 giờ sáng:
Đại tá Nguyễn Hồng Đài từ tư dinh của Đại tướng Dương văn Minh điện thoại ngay cho tôi, nhờ đưa một phái đoàn đại diện cho Tổng Thống đến gặp phái đoàn cộng sản Bắc Việt và Việt Cộng (MTGPMN) ở trại Davis. Phái đoàn gồm có Luật sư Nguyễn văn Huyền, Phó Tổng Thống, Luật sư Vũ văn Mẫu Thủ Tướng, và chuẩn tướng Nguyễn hữu Hạnh, quyền Tham mưu trưỏng Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa từ ngày 28 tháng 4-75(một bộ hạ thân tín của tướng Dương văn Minh ở Bộ Tư Lệnh Hành Quân từ 1955, sau nầy mới được biết là đã làm tay sai cho cộng sản từ đầu thập niên 70, và từ đó đã trở thành một Việt Cộng nằm vùng rất đắc lực của Bắc Việt).
Khối Ngoại Vụ chúng tôi cho biết là cộng sản Bắc Việt và Việt Cộng không tiếp phái đoàn. Nhưng đại tá Đài cho tôi biết là “Ông già nhấn mạnh là tôi nên cố gắng, vì cuộc gặp mặt nầy rất quan trọng”. Tôi đành phải đích thân gọi vào trại Davis, gặp đại tá Sĩ để điều đình. Cuối cùng, phái đoàn của Tổng Thống Minh “được đồng ý cho vào trại Davis, gọi là để viếng thăm hai phái đoàn cộng sản Bắc Việt và “Chính Phủ Lâm Thời Miền Nam” (nguyên văn lời đại tá Sĩ trực tiếp nói với tôi qua điện thoại).
(Xin mở một dấu ngoặc ở đây để nói rõ về anh đại tá Sĩ nầy. Tôi biết đưọc anh Nguyễn văn Sĩ trước học ở trường Collège Cần Thơ, có biệt danh là “Sĩ Kiến”. Theo bản trận liệt mà chúng ta biết được, thì anh Sĩ là Tư lệnh sư đoàn 7 bộ binh của MTGPMN. Chúng tôi hai đứa gặp nhau và nhìn lại nhau, ở cương vị đối nghịch nhau, tại bàn hội nghị Ban Liên Hợp Quân Sự 4 Bên ở Tân sơn Nhất. Nhờ đó, mỗi khi gặp bế tắc trong bất cứ vấn đề gì ở bàn Hội Nghị, nhất là về trao trả tù binh, thì anh Sĩ lại được tướng Trần văn Trà cho anh đại diện cho Cộng sản để “mật đàm với đại tá Nghĩa”, nhằm tìm ra giải pháp. Đến năm 1989, sau khi ra khỏi trại tù cải tạo, nhân một dịp đi xuống Cần Thơ, tôi lại được gặp anh Sĩ vài lần ở ngay sân quần vợt Cần Thơ. Đươc biết là anh đã rời khỏi quân ngũ từ 1977, vì lý do đảng tịch, và là người Miền Nam nên anh phải “đi một xuồng” với tướng Trà).
Phái đoàn của Luật sư Huyền vào trại Davis lúc 9 giở ngày 30-4 năm 1975, và rời khỏi trại hồi 10 giờ hơn. Tôi tò mò muốn biết kết quả của cuộc gặp gỡ nầy, nhưng đại tá Đài không cho biết. Vì anh không được biết, vì anh không muốn tiết lộ, hay vì một lý do nào khác ? Qua đại tá Sĩ thì tôi cũng không được biết gì hơn, ngoài câu “như đã thỏa thuận với anh hồi nãy”. Tức phải được hiểu ngầm là “chỉ có viếng thăm xã giao, mà không có bàn đến các vấn đề gì khác”
Tò mò hơn, qua điện thoại với Trung Tá chánh văn phòng Trương Minh Đẩu. Tôi được biết là ông Dương văn Minh đã “mò” lên tận vùng Long Khánh (không rõ chính xác ở đâu) với liên lạc viên Dương văn Nhật, để gặp Lê đức Thọ từ mấy ngày trước, qua đường dây liên lạc đặc biệt nào đó mà anh không biết.
(Dương văn Nhật là em ruột của tướng Minh, tập kết ra Bắc năm 1954, về Nam với quân hàm trung tá của MTGPMN, vào ở ngay Dinh Hoa Lan tại đường Trần Quý Cáp với gia đình tướng Minh từ lâu. Dĩ nhiên trong nhiệm vụ sĩ quan liên lạc của cộng sản).
Vẫn theo lời anh Đẩu, thì sau khi phái đoàn của ông Nguyễn văn Huyền về đến Dinh Hoa Lan, ông Minh họp Hội đồng Chánh Phủ và cho biết là MTGPMN đã bác bỏ đề nghị của ông nhằm tìm một giải pháp chánh trị cho Miền Nam Việt Nam. Vì vậy ông đã quyết định là: chỉ còn một cách duy nhất là “đầu hàng vô điều kiện” mà thôi!
4 giờ chiều:
Tôi muốn nhắc lại ở đây một đoạn đàm thoại ngắn giữa tôi và thiếu tướng Nguyễn Cao Kỳ qua điện thoại, mà ông gọi tôi lúc 4 giờ chiều ngày hôm nay, từ tư dinh của ông, ngay trong căn cứ Không Quân Tân Sơn Nhất.

Washington, những ngày cuối năm Quí Mùi 2003
Dương Hiếu Nghĩa

(Cố đại tá Dương Hiếu Nghĩa là thủ khoa Khóa 5, Trường Võ Bị Quốc Gia Đà Lạt.
Cựu Tỉnh Trưởng Vĩnh Long. Trưởng Khối Ngoại Vụ của Ủy Ban Liên Hiệp Bốn Bên
)

Exit mobile version